Đồng bằng sông Cửu Long trước thách thức chuyển nước trên dòng Mê Kông

Lưu vực Mê Kông, nhu cầu và hiện trạng cấp nước cho vùng hạ lưu
Lưu vực sông Mê Kông được xác định trên diện tích rộng 795.000km² với tổng dung lượng nước hàng năm 475 tỷ m³; tuy nhiên, lượng nước phân bố không đều theo không gian và thời gian tại 6 quốc gia. Trong tổng dung lượng nước hàng năm, Trung Quốc chiếm 16%, Myanma 2%, Lào 35%, Thái Lan 18%, Campuchia 18% và Việt Nam ở hạ nguồn chỉ chiếm 11%. Do ảnh hưởng của địa hình và chế độ gió mùa Tây Nam, dòng chảy có sự khác biệt rất lớn trong mùa mưa và mùa khô. Vào mùa mưa (Từ tháng 6 đến tháng 11) lượng nước chiếm tới 90% tổng lượng nước cả năm; lòng dẫn của sông không tải nổi, nước chảy tràn qua 2 bên bờ; phía trái qua các cánh đồng ngập lũ ở Kompong Cham đổ về Việt Nam (khoảng 7,32 tỷ m3), còn bên phải với lượng nước lớn hơn (40 tỷ m3) chảy ngược qua sông Tonle Sap vào Biển Hồ, tạo lượng nước dự trữ đáng kể cho dòng chảy ở hạ nguồn. Theo những tài liệu hiện có, lượng nước sông Mê Kông dược dùng cho nông nghiệp, công nghiệp và sử dụng có tiêu hao khác ở hạ lưu vực vào khoảng 60 tỷ m³ chiếm 12% tổng lưu lượng trung bình hàng năm (Nguyễn Nhân Quảng 2016).
Phân tích nhu cầu nước ở vùng hạ lưu cho thấy, nông nghiệp là ngành sử dụng lớn nhất và được dự báo tiếp tục gia tăng trong những thập niên tới. Trong khu vực, hiện có trên 11.420 dự án thủy lợi đang hoạt động, tưới nước cho khoảng 4 triệu ha; trong đó, 87% diện tích là vụ lúa mùa mưa; mùa khô chỉ có 31%, còn cây trồng khác chiếm khoảng 15%. Gắn liền với các kế hoạch mở rộng sản xuất nông nghiệp và phát triển hệ thống tưới tiêu của các quốc gia, diện tích tưới nước được dự báo sẽ gia tăng đáng kể trong 2 thập niên tới.        
Trong  các quốc gia ở phía hạ lưu, Việt Nam là nước có trình độ thâm canh cao, nhiều nơi đã sản xuất 2-3 vụ lúa trong năm, tổng diện tích được tưới hàng năm khoảng 1,9 triệu ha (chiếm 48% diên tích được tưới ở hạ lưu Mê Kông ). Đồng bằng sông Cửu Long với diện tích canh tác lúa trên 1,8 triệu ha, sản xuất đủ lương thực cho tiêu dùng tại chỗ đồng thời đóng góp tới 90% vào lượng gạo xuất khẩu cả nước.
Nằm ở phía trên ĐBSCL, 86% diện tích của Campuchia thuộc lưu vực Mê Kông; cả nước có 3,7 triệu ha đất canh tác, 75% điện tích được trồng lúa vào mùa mưa theo phương thức canh tác hộ gia đình, nước tưới phụ thuộc theo mưa và nguồn nước tự nhiên.
Tại Lào, do địa hình khá dốc, diện tích thích hợp để tưới nước có nhiều hạn chế; những nơi được tưới thường là những dải đất hẹp nằm dọc theo các sông nhánh hoặc là cánh đồng ngập lũ dọc dòng sông chính Mê Kông. Nước Lào hiện có trên 2.330 dự án tưới có khả năng tưới nước trên diện tích 166.450 ha.
Thái Lan là nước có vùng Đông Bắc rộng lớn, gồm 19 tỉnh có diện tích hơn 169.000Km2.  Nằm trong lưu vực Mê Kông, diện tích canh tác của vùng chiếm 40% diện tích canh tác cả nước với cây trồng chính là lúa gạo; song đến nay, diện tích có hệ thống tưới tiêu hỗ trợ chỉ chiếm khoảng 10,6%. Là quốc gia có nhiều công trình tưới nhất trong lưu vực (6.388); các dự án nước của Thái Lan chủ yếu nằm dọc hành lang cánh đồng ngập lũ ở vùng Đông Bắc, quanh các hồ chứa dung tích lớn và các đập dâng nhỏ. Khó khăn chính trong canh tác mùa khô là đất nhiễm mặn, tầng nước ngầm cao và nguồn nước mặt hạn chế. Từ đây, quốc gia này đang dự định xây dựng thêm nhiều dự án chuyển nước lớn từ sông Mê Kông.

Chủ trương và giải pháp đáp ứng nhu cầu nước của các quốc gia trong lưu vực
Trong các kế hoạch phát triể KT-XH Quốc gia lần thứ X (2005-2010) và thứ XI (2011-2016) với tầm nhìn đến năm 2027, Nhà nước Thái Lan đã định hướng vùng Đông Bắc sẽ trở thành trung tâm sản xuất và chế biến lương thực thực phẩm và nhiên liệu sinh học lớn của cả nước. Theo đó, họ phải xây dựng mới và cải tạo nhiều hệ thống tưới tiêu, dẫn nước và chuyển nước trên quy mô lớn. Ngoài dự án chuyển nước sông Mê Kông sang lưu vực sông Chao Phraya qua hệ thống Kok-In-Nan (ngoài lưu vực Mê Kông), các dự án Kong-Chi-Mun, xanh hóa Isan và mạng lưới nước… đã tập trung vào chuyển nước sông Mê Kông vào vùng Đông Bắc để phát triển nông nghiệp.

Trạm bơm chuyển nước sông Mê Kông vào hệ thống hồ chứa tại ĐB Thái Lan
Cũng như Thái Lan, từ năm 2010 Chính phủ Campuchia đã hướng vào mở rộng xuất khẩu lúa gạo. Bên cạnh lúa gạo, Campuchia đang mở rộng diện tích cây công nghiệp (cao su, sắn…) với ưu tiên hàng đầu hướng vào mở rộng diện tích tưới và đảm bảo nước tưới cho đất canh tác. Theo đó, từ 2.090 dự án tưới cho trên 504,2 nghìn ha, Chính phủ Campuchia đã có kế hoạch mở rộng và xây dựng thêm nhiều dự án mới để đưa diện tích được tưới đến năm 2030 lên 772,5 nghìn ha (tăng 53%).
Từ những động thái của các quốc gia trong lưu vực có thể thấy: Chính phủ Thái Lan đang xúc tiến triển khai mạnh các dự án chuyển nước sông Mê Kông tại vùng Đông Bắc và Chính phủ Campuchia với dự án tưới Vaico, do các nhà đầu tư Trung Quóc thực hiện, cũng hướng vào chuyển nước chảy qua bờ trái Mê Kông qua sông Samdei để trữ tại hồ Krapik.
Các dự án chuyển nước ở vùng Đông Bắc Thái Lan
Nguồn nước mặt ở Đông Bắc Thái Lan với tiềm năng chừng 65 tỷm³, song chỉ khoảng 15% được sử dụng hữu ích.Các dự án chuyển nước sông Mê Kông tại Thái Lan hiện đang phát triển theo 2 hướng: Chuyển nước từ lưu vực sông sang các lưu vực sông khác và chuyển trong lưu vực từ bờ trái sang phải, rồi từ bờ phải chuyển sâu vào nội địa với nhiều tuyến khác nhau.
Từ năm 1980, Thái Lan đã triển khai dự án chuyển nước mang tên Kong-Loei-Chi-Munnhằm chuyển nước từ sông Mê Kông về lưu vực sông Chi, Mun.  Quy mô dự án bao gồm công trình đầu mối ở cách ngã ba Mê Kông khoảng 2,9 km, lấy nước vào kênh hở rồi chuyển qua tuy nên chia thành 2 tuyến dẫn về Huai Luang dài 54,5km và Ubolratana dài 85,5 Km, rồi dẫn tiếp đến lưu vực sông Chi và Mun. Dự án có tổng chiều dài các kênh dẫn nước tới hơn 2.200 Km chảy qua 17 tỉnh và 113 huyện vùng Đông Bắc và theo Nguyễn Nhân Quảng, lượng nước chuyển vào Chi-Mun có thể lên tới 4 tỷ m3/năm
Do những hạn chế trong thực hiện, Thái Lan đang chuyển sang những dự án lấy nước dòng nhánh trữ tại các hồ có một số tuyến chuyển nước. Theo đó, tuyến Mê Kông-Huai Luang- Non Han-Lam Pao là một dự án nổi bật. Dự án này dự kiến xây dựng 30 hồ chứa trữ nước sông Mê Kông để chuyển đến các vùng xung quanh. Hồ Nong Han đã được xây dựng, đang chuẩn bị mở rộng để nâng diện tích lòng hồ lên 45 Km2 với dung tích 102 triệu M 3 đảm bảo lượng nước vào/ra hàng năm 2,8 tỷ m3 (Nguyễn Nhân Quảng 2016).

Dự án chuyển nước Vaico của Campuchia
Do thủy văn dòng chảy Mê Kông có sự chênh lệch rất lớn giữa lượng nước mùa khô và mùa mưa, với mục đích chuyển nước lũ tràn qua tả ngạn Mê Kông vào trữ tại hồ Krapik để tưới tự chảy cho các vùng trồng lúa, Campuchia đã xây dựng dự án Vaico với các hạng mục xây dựng đập lấy nước từ sông Samdei có các cửa van điều tiết ở Dom Nak Prean. Dung tích chứa đầy nước của hồ Krapik được xác định khoảng từ 800 đến 1000 triệu m3.
Nhìn chung, việc lấy nước trong các dự án của Thái Lan và Campuchia thường là chuyển nước sông Mê Kông qua các dòng nhánh vào chứa trong các hồ trữ nước lớn. Khi nước lũ xuống thấp, các dòng nhánh không còn nước chảy ngược lại đổ vào Mê Kông khiến dòng chính không còn đảm bảo được chế độ thủy văn; thực tế này sẽ làm cạn kiệt đến mức thấp nhất dòng chảy ở phía hạ nguồn. Với trên 20 sông nhánh lớn nhỏ trên hữu ngạn Mê Kông của Thái Lan đều có trạm bơm chuyển nước vào trữ tại các hồ chứa cùng với những dự án tương tự ở Campuchia, lượng nước lũ về đồng bằng sông Cửu Long ngày càng cạn kiệt. Lượng nước giảm bớt cùng với tác động thay đổi chế độ dòng chảy, lượng phù sa suy kiệt sẽ làm nghiêm trọng thêm những biến động bất lợi như sạt lở đất và xâm nhập mặn ở phía hạ nguồn.

Chuyển nước dòng chảy Mê Kông từ góc nhìn nghiên cứu và quản lý
Nhiều chuyên giamôi trường đã lên tiếng cảnh báo về những rủi ro tiềm ẩn khi 3 nước Thái Lan, Lào, Campuchia đẩy mạnh đầu tư cho các dự án thuỷ điện và chuyển nước trên dòng Mê Kông. Nằm ở cuối nguồn, ĐBSCL của Việt Nam trong mùa khô năm 2015-2016 đã phải đối mặt với tình trạng khô hạn và xâm nhập mặn nghiêm trọng nhất trong thế kỷ qua. Ngoài tác động cực đoan của El Nino, những tác động tích lũy ban đầu của các dự án phát triển thủy điện, chuyển nước, lấy nước ở vùng thượng lưu đã tác động nghiêm trọng đến chế độ dòng chảy và ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ khu vực hạ lưu.
Từ những trăn trở của nhà khoa học, nguyên Phó Tổng thư ký Ủy ban Mê Kông Việt Nam Nguyễn Nhân Quảng nhận định: Tình trạng ngập lũ trong mùa mưa và thiếu nước ngọt, hạn hán, nước mặn xâm nhập trong mùa khô có nguy cơ ngày một tăng cao dưới tác động của thuỷ điện cũng như việc triển khai các dự án chuyển nước sông Mê Kông. Cùng với thiếu nước, biến đổi dòng chảy đã làm lượng phù sa đổ về ĐBSCL giảm sút; hệ thủy sinh và môi trường sinh thái cũng biến đối mạnh do tác động của việc khai thác sử dụng nước từ phía thượng lưu (Nguyễn Nhân Quảng 2016).
Trao đổi tại nhịp cầu báo chí “Rủi ro tiềm ẩn từ các dự án chuyển nước sông Mê Kông tới ĐBSCL” do Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) tổ chức tại Hà Nội, chuyên gia của Ủy hội Mê KôngViệt Nam Nguyễn Hồng Toàn cho rằng, việc chuyển nước sông Mê Kông không phải là vấn đề mới, các nước đã triển khai từ năm 1960. Tuy nhiên, đến nay người Thái và Campuchia đã tổ chức xây dựng trên quy mô lớn. Ông lưu ý, Trung Quốc chiếm 16-17% tổng lưu lượng dòng chảy nhưng thực tế đã chiếm 50% dòng chảy mùa khô;95% lưu lượng dòng chảy vào ĐBSCL đến từ nước ngoài nên khi dòng chảy giảm, đồng bằng đã phải đối mặt với tình trạng hạn hán, ngập mặn nghiêm trọng.
Trong bối cảnh mọi sự quan tâm đều dồn vào thủy điện có thể đó đã là thời điểm tốt để Thái Lan âm thầm triển khai các ý định về chuyển nước.Do hệ lụy của thủy điện và chuyển nước từ phía thượng nguồn, trong tháng hạn nhất (tháng 4), lưu lượng nước mùa kiệt đổ về Việt Nam bị giảm từ 12% đến 30% (từ 120 đến 300m3/s ). Phát triển thủy điện ở phía thượng nguồn đã gây khó khăn không nhỏ cho ĐBSCL; song thủy điện kết hợp cùng chuyển nước sẽ càng làm trầm trọng thêm nguy cơ bất lợi, bởi xung đột quyền lợi trên lưu vực sông là điều khó tránh (Nguyễn Hồng Toàn 2016).



Trạm bơm chuyển nước sông Mê Kông vào hệ thống hồ chứa tại ĐB Thái Lan

Đồng tình với quan điểm triển khai cùng lúc các dự án thuỷ điện và chuyển nước là rất nguy hiểm, nhà nghiên cứu Trần Xuân Thái đến từ viện Khoa học Thuỷ lợi cho biết, nếu triển khai cả thuỷ điện và chuyển nước trên dòng chính Mê Kông sẽ làm mất đi 60% lượng phù sa cho phía hạ nguồn, đây là nguyên nhân gây sạt lở ngày một gia tăng trên hệ thống sông ngòi ở ĐBSCL.
TS. Đào Trọng Tứ, chuyên gia Mạng lưới sông ngòi Việt Nam nhận xét, hiện nay các nghiên cứu mới tập trung vào tác động của các công trình thuỷ điện mà chưa quan tâm đầy đủ về vấn đề chuyển nước. Chuyển nước đang là thách thức lớn đối với ĐBSCL đặc biệt khi cơ chế hợp tác giữa các nước trong khu vực còn lỏng lẻo.
Đối mặt với tình trạng hạn hán nghiêm trọng; thời gian qua, giới chức các tỉnh Đông Bắc Thái Lan đã cho vận hành hang trăm trạm bơm chuyển nước từ sông Mê Kông vào các con sông nhánh được xây đập chắn nước, đã chuyển hàng trăm triệu mét khối nước nhằm giải quyết tình trạng hạn hán nghiêm trọng ở khu vực này. Bất chấp cảnh báo của giới chuyên môn về tác động tiêu cực đối với các nước ở phía hạ nguồn, Chính phủ Thái Lan dự kiến sẽ chi 1,8 tỷ USD để thực hiện kế hoạch chuyển nước trên dòng chảy Mê Kông (Đào Trọng Tứ 2016).
Khai thác và sử dụng nước trên dòng sông Mê Kông nếu không tính toán kỹ sẽ dẫn đến hậu quả khó lường cho vùng hạ lưu. Kinh nghiệm rút ra từ các kết quả nghiên cứu tài nguyên nước trên sông Hồng, sông Mã, sông Cả,…đã cho thấy, dòng chảy về kiệt trong mùa khô không chỉ là nguyên nhân tác động đến hạn hán, xâm nhập mặn ở hạ du và còn gây nhiều rủi ro tiềm ẩn đối với môi trường. Chuyên gia của Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường Đặng Thị Hà Giang nhấn mạnh, với thực trạng khai thác sử dụng nước hiện nay trên dòng Mê Kông thì “thượng lưu thu được lợi ích còn hạ lưu là nơi phải chi trả”. Xung đột quyền lợi giữa các quốc gia là khó tránh, các dự án chuyển nước trên dòng Mê Kông cần được tính toán, thỏa thuận giữa các bên liên quan; nhất là đối với ĐBSCL một khu vực nằm ở hạ lưu, trong bối cảnh nhu cầu sử dụng nước ở vùng thượng lưu ngày một gia tăng.
Chuyên gia độc lập, Cố vấn trưởng Mạng lưới vì Nước Đỗ Hồng Phấn nhận xét, lâu nay lưu vực Mê Kông được bàn nhiều về phát triển thủy điện mà lơ là vấn đề chuyển nước, các nước đều không muốn thông báo về vấn đề này. Nói về chuyển nước bà nhấn mạnh, cần làm rõ việc dùng nước ven sông và chuyển nước vì điều này liên quan đến quyền sử dụng nước ven sông của các cộng đồng để có cách ứng xử thích hợp. Với Thái Lan, cần làm rõ mức độ can thiệp; nếu họ chỉ trữ nước ven sông thì không có gì đáng nói, nhưng khi họ bơm nước vượt qua dãy núi phân thủy giữa sông Mê Kông và sông Chi, Mun thì đó là chuyển nước. Với Campuchia, sông Vaico nằm ngoài Mê Kông. Nếu dùng thuật ngữ sông Vaico, rõ ràng đó là sự chuyển nước ra ngoài lưu vực. Theo bà, vừa qua Trung Quốc xả nước, Thái Lan có bơm nhưng không xác định được số lượng nước chuyển. Cần khẳng định Thái Lan đã bơm chuyển nước từ nhiều năm qua, đáng tiếc là chúng ta chưa thể làm rõ được con số nước đã chuyển. Nếu họ chỉ bơm vào mùa lũ và trữ lại để sử dụng quanh ven sông  thì không không phải vấn đề lớn; nhưng nếu dùng để chuyển nước liên lưu vực thì lại là vấn đề rất đáng quan tâm (Đỗ Hồng Phấn 2016) .

Thay cho lời kết
Vấn đề chuyển nước được đặt ra từ lâu trong phân tích những nguy cơ tác động tới lưu vực Mê Kông. Tuy nhiên, trong bối cảnh khi các nước thượng lưu đẩy mạnh khai thác các dự án chuyển nước đã dấy lên mối quan ngại về những ảnh hưởng đến tình hình kinh tế-xã hội cũng như hệ sinh thái toàn lưu vực
Trao đổi  thảo luận trong nhịp cầu  báo chí ngày 20 tháng 7 năm 2016, các nhà khoa học và khách mời có chung nhận xét, khởi động những thảo luận về chuyển nước trong lưu vực Mê Kông là vấn đề cần thiết đối với Việt Nam. Đây là vấn đề không mới, song lại là thách thức lớn đối với ĐBSCL mà nhiều năm qua, sự quan tâm và thảo luận dường như mới chỉ tập trung vào thủy điện. Đã đến lúc cần có sự điều chỉnh trong cách nhìn nhận và đánh giá về việc hợp tác tài nguyên nước xuyên biên giới theo hướng toàn diện, tổng thể hơn, trong đó chuyển nước cần được đề cập ở mức độ phù hợp.
Báo cáo khảo sát của tổ chức Pan&Nature được chia sẻ trong cuộc tọa đàm báo chí đã đóng góp một góc nhìn đa chiều, phát đi một thông điệp cảnh báo đối với cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội.
 Với nguyện vọng của những người tham dự nhịp cầu báo chí lần này; tiếng nói chung được đề xuất là nhóm nghiên cứu khảo sát cần sớm hoàn thiện công trình với việc làm rõ các phân tích và kiến nghị để công bố rộng rãi đến mọi tầng lớp xã hội. Trong đó, cần mở rộng tham khảo dữ liệu từ nghiên cứu tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông (PanNature 2016).

Tài liệu tham khảo
PanNature (2016)Biên bản tọa đàm “Rủi ro tiềm ẩn từ các dự án chuyển nước sông Mê Kông tới ĐBSCL”; Hà Nội ngày 20 tháng 7
Nguyễn Nhân Quảng (2016).   Áp lực lên tài nguyên nước ĐBSCL do mở rộng nông nghiệp tại Campuchia và vùng Đông Bắc Thái Lan. Chương trình nhịp cầu báo chí số 14 PanNature; Hà Nội ngày 20 tháng 7
Nguyễn Hồng Toàn (2016)Phát biểu tại nhịp cầu báo chí Pan&Nature ngày 20 tháng 7
Đào Trọng Tứ (2016).Phát biểu tại nhịp cầu báo chí Pan&Nature ngày 20 tháng 7
Đỗ Hồng Phấn (2016)Phát biểu tại nhịp cầu báo chí ngày 20 tháng 7

Thành Ý
Hội Khoa học Phát triển Nông thôn

Liên quan đến bài viết

Bình luận

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *