Thông cáo báo chí Tọa đàm “Vấn đề hạn – mặn ở ĐBSCL năm 2016: Hiện trạng – Tác động – Giải pháp”

THÔNG CÁO BÁO CHÍ
TỌA ĐÀM VẤN ĐỀ HẠN – MẶN Ở ĐBSCL NĂM 2016:
HIỆN TRẠNG – TÁC ĐỘNG – GIẢI PHÁP

 
Ngày 01 tháng 04 năm 2016, Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN) đã phối hợp với Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu – Đại học Cần Thơ (DRAGON) tổ chức Tọa đàm “Vấn đề Hạn-Mặn ở ĐBSCL năm 2016: Hiện trạng-Tác động-Giải pháp”. Gần 80 đại biểu là đại diện của các sở ban ngành thuộc 13 tỉnh ĐBSCL, các nhà nghiên cứu và cơ quan báo chí trong và ngoài nước đã đến tham dự. Diễn giả là các chuyên gia, các nhà khoa học có nhiều nghiên cứu và tâm huyết với ĐBSCL đã cập nhật thông tin về tình trạng hạn hán, ngập mặn và đánh giá sơ bộ thiệt hại tại các tỉnh ven biển và vùng bị xâm nhập mặn mở rộng trong thời gian vừa qua, đồng thời cùng thảo luận với đại biểu về các giải pháp ứng phó với hiện trạng hạn hán, xâm nhập mặn và quản lý nước bền vững hiện nay tại ĐBSCL.

Tại buổi tọa đàm, PGS.TS. Lê Anh Tuấn, thuộc Viện DRAGON, thành viên Ban Tư Vấn VRN, cho biết đây là đợt hạn hán kỷ lục xẩy ra trong gần 100 năm qua tại ĐBSCL. Tình trạng này đã dẫn tới xâm nhập mặn vào đất liền từ 90-130km tại nhiều tỉnh, gây thiệt hại tới hơn 100.000 ha lúa. Ngoài ra, số thiệt hại có thể còn tăng cao khi khí hậu bị ảnh hưởng bởi hiện tượng cực đoan El Nino kéo dài, dự đoán mùa mưa năm nay sẽ đến muộn hơn những năm trước. Cũng theo PGS, hiện nay 70% lượng nước ngọt ở ĐBSCL được sử dụng cho mục đích nông nghiệp, nước dành cho công nghiệp chiếm 22%, còn lại khoảng 7% nước dùng cho sinh hoạt, do vậy, việc thay đổi chiến lược và tìm phương thức trồng lúa phù hợp nhưng vẫn đảm bảo an ninh lương thực (ANLT) và phát triển nông thôn bền vững trong bối cảnh ĐBSCL phụ thuộc nguồn nước từ bên ngoài là điều cấp thiết hiện nay. Ông cho biết thêm, hiện Trung Quốc tuyên bố xả nước theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam để chống hạn. Tuy nhiên, với khoảng cách hơn 4.000 km thì phải mất gần 3 tuần nước mới tới được ĐBSCL. Bên cạnh đó, vùng Vân Nam của Trung Quốc, các quốc gia thượng nguồn là Thái Lan, Lào, Campuchia cũng đang đối mặt với hạn hán, vậy lượng nước đến ĐBSCL sẽ không còn bao nhiêu và không đủ để canh tác lúa trước khi có mưa vào tháng 6 năm nay. Một khuyến cáo lớn với bà con nông dân hiện nay là không nên xuống giống vội để tránh bị thiệt hại.

TS. Dương Văn Ni, giảng viên Bộ môn Quản lý Môi trường Đại học Cần Thơ, người đã từng gắn bó nhiều năm với các nghiên cứu mô hình trồng lúa và đa dạng nguồn sinh kế cho người dân tại ĐBSCL cho biết “việc xâm nhập mặn tại đồng bằng phụ thuộc vào ba yếu tố chính: nước từ thượng nguồn đổ về ít, nước từ biển dâng cao và sụt lún tại đồng bằng”. Theo ông, yếu tố lượng phù sa từ trước đến nay đã không được người dân và chính quyền quan tâm, thay vào đó, họ chỉ quan tâm lượng nước lũ đổ về. Chính tâm lý phụ thuộc vào nước mặt từ thiên nhiên đã làm cho bà con nông dân và chính quyền các cấp không kịp chủ động đối phó với tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn năm nay, đặc biệt trong bối cảnh các nước tại vùng thượng nguồn đang đẩy nhanh tốc độ ngăn dòng và xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính. Ông kiến nghị, việc trang bị kỹ năng và kiến thức để phát triển nhân lực phù hợp tại ĐBSCL, đa dạng hóa nguồn sinh kế người dân, phát triển nông nghiệp bền vững và quản lý nước xuyên biên giới là điều cấp bách cần làm trong bối cảnh hiện nay.

Cách giải quyết nào phù hợp cho vấn đề chia sẻ lợi ích trong quản lý nước tại Tiểu vùng Mê Công?

Việc khai thác và sử dụng nguồn lợi từ dòng sông Mê Công được bàn luận nhiều tại tọa đàm. Sau 20 năm ký kết, Hiệp định 1995 về Quản lý tài nguyên nước tại sông Mê Công đã bộc lộ những hạn chế cần sửa đổi và bổ sung thêm để tăng cường sự hợp tác và quản lý hiệu quả nguồn nước từ sông Mê Công. Việt Nam là nước đầu tiên trong các quốc gia ven sông Mê Công (Trung Quốc, Myanma, Lào, Thái Lan Campuchia và Việt Nam) phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế cho các mục đích phi giao thông thủy (the 1997 UN Convention on the Law of the Non-Navigational Uses of International Watercourses-UN Watercourses Convention). Với việc Việt Nam là quốc gia thứ 35 trên 103 quốc gia bỏ phiếu thuận, Công ước 1997 đã có hiệu lực thi hành.
 
Nguyễn Thị Hồng Vân
Điều phối Quốc gia Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam

Một số hình ảnh tại Tọa đàm:

PGS.TS Lê Anh Tuấn, thuộc Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu, thành viên Ban tư vấn VRN

Các đại biểu tham dự Tọa đàm

TS. Dương Văn Ni trình bày tại Tọa đàm

Liên quan đến bài viết

Không có tiêu đề

Không có tiêu đề

Nỗ lực hoạt động nâng cao giá trị sản xuất và bảo vệ môi trường…

Bình luận

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *