Quản lý tài nguyên nước trong khu vực Mê Công, trong thực tế được quyết định dựa trên những mục tiêu về năng lượng. Tại Campuchia, ưu tiên của chính phủ là sản xuất thủy điện trong nước để thay thế cho nhập khẩu dầu diesel và điện có chi phí đắt đỏ. Tại CHDCND Lào, mục tiêu doanh thu thu được từ đầu tư nước ngoài vào xây dựng đập thủy điện và thặng dư xuất khẩu điện sang các quốc gia láng giềng, trong đó Thái Lan là thị trường lớn nhất. Việt Nam, nơi đã khai thác gần như hết tiềm năng thủy điện của trong nước, đặt ưu tiên vào việc đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng được dự báo sẽ tăng gấp ba đến năm 2030 trong khi vẫn giảm thiểu được tác động của các đập ở thượng nguồn tới khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có vai trò kinh tế sống còn đối với quốc gia.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu quốc tế có uy tín về kinh tế và môi trường chỉ ra mức độ thiệt hại về sản lượng đánh bắt cá và lượng phù sa được chuyển tới khu vực đồng bằng Mê Công ở Campuchia và Việt Nam do tác động của việc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn.
Nhưng kết quả của những nghiên cứu này vẫn chưa thể gây ảnh hưởng lớn tới các chính sách phát triển thủy điện. Điều này có thể được nhận ra từ trường hợp của đập thủy điện Hạ Sesan 2 tại Campuchia. Con đập này sẽ chặn các nhánh sông chính của sông Sesan và Srepok, gây ra nguy cơ giảm 9% lượng sản xuất thủy sản của cả khu vực Mê Công theo một bài báo khoa học uy tín của Mỹ. Campuchia có giá điện cao thứ 2 trong khu vực ASEAN và do đó, cho dù đang phụ thuộc rất lớn vào nguồn protein từ cá sông Mê Công, chính phủ dù không công khai vẫn phải ưu tiên các mục tiêu an ninh năng lượng hơn mục tiêu an ninh lương thực.
Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây của Trung tâm Stimson, IUCN, Đại học California-Berkeley và tổ chức The Nature Conservancy cho thấy, nếu Campuchia, CHDCND Lào và Việt Nam tận dụng được các thành tựu mới đây trong công nghệ phát điện và truyền tải các loại năng lượng tái tạo, các quốc gia này có thể đạt được các mục tiêu an ninh năng lượng (được định nghĩa là sự sẵn có liên tục của các nguồn năng lượng ở một mức giá phù hợp) trong khi vẫn giảm đáng kể các rủi ro về xã hội, môi trường và chính trị.
Việc này có thể đạt được do giá của điện gió và điện mặt trời tại thị trường thế giới đã và đang giảm nhanh chóng, khiến cho những nguồn năng lượng tái tạo này có thể cạnh tranh tốt và có lợi nhuận trên quy mô lớn. Hơn nữa, trong khi thời gian lắp đặt các nhà máy điện mặt trời và điện gió có thể trong vòng vài tháng thì các đập thủy điện lớn cần đến hơn mười năm mới hoàn thành. Vì thế, điện gió và điện mặt trời có thể được sử dụng để đáp ứng nhanh chóng sự thiếu hụt trong cung cầu điện và thúc đẩy quá trình điện khí hóa nông thôn. Những cải tiến trong công nghệ truyền tải giúp việc xây dựng một lưới điện cấp khu vực hoàn toàn khả thi. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á, một lưới điện cho khu vực sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia trong khu vực Mê Công đáp ứng nhu cầu điện trong các thời kỳ đỉnh điểm và nhu cầu dự trữ năng lượng thông qua việc trao đổi mua bán điện, thay vì xây dựng thêm các nhà máy điện.

Công trình bên sông Cái Tàu (Ảnh:Lâm Văn Đời)
Nâng cao năng lực mô hình hóa sẽ cho phép các nhà quy hoạch nghiên cứu các phương án phát triển đập và so sánh các tác động về xã hội và môi trường, hỗ trợ chỉ ra và ưu tiên các đập vừa đáp ứng nhu cầu điện vừa gây ít tác động tiêu cực tới môi trường. Song song với đó, việc lồng ghép các quy hoạch cho các nguồn năng lượng tái tạo phi thủy điện, các hợp tác mua bán điện cấp khu vực và thủy điện thông minh có thể giúp giảm thiểu số lượng đập cần phải xây dựng và cải thiện việc thiết kế, xác đinh vị trí lắp đặt và vận hành của các đập sẽ được xây dựng.
Những tiến bộ này có ý nghĩa rất quan trọng cho Lào với tham vọng trở thành “Ắc quy của Đông Nam Á”. Lý do là vì gần như tất cả các đập được xây dựng ở Lào là các dự án đầu tư nước ngoài theo phương thức Xây dựng-Sở hữu-Vận hành-Chuyển giao (BOOT). Toàn bộ doanh thu sẽ chảy về nhà đầu tư trong vòng 20 đến 30 năm đầu tiên trước khi quyền sở hữu được chuyển lại cho chính phủ Lào. Do đó, những đập này tạo ra rất ít nguồn thu cho chính phủ trong trung hạn và ngắn hạn. Tuy nhiên, một lưới điện quốc gia có thể tạo ra 400 triệu đô-la Mỹ một năm nhờ việc thu phí xuất khẩu điện với điều kiện đây vẫn là tài sản độc quyền của chính phủ. CHDCND Lào cũng có tiềm năng điện gió và điện mặt trời (đạt đỉnh trong mùa khô) rất lớn và có thể giúp cân bằng với thủy điện (đạt đỉnh trong mùa mưa). Vì vậy, Lào thực sự có thể trở thành Ắc quy của Đông Nam Á nhưng chiếc ắc quy này sẽ lấy điện từ nhiều nguồn đa dạng hơn và chống chịu tốt hơn trước các cú sốc về thị trường và khí hậu.
Sự chuyển dịch trong nhu cầu năng lượng cấp khu vực cũng dấy lên câu hỏi, vậy quốc gia nào sẽ là thị trường chính về lâu dài cho điện sản xuất tại Lào? Trong lịch sử, Thái Lan là nhà đầu tư chính và là nước mua điện lớn nhất ở Lào. Hai bên đã có thỏa thuận mua 10.000 MW trong tương lai. Tuy nhiên, Thái Lan gần đây đã đưa ra các biện pháp và kế hoạch thúc đẩy sử dụng điện hiệu quả để tăng đáng kể lượng đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo trong nước và vì thế, có thể sẽ giảm nhu cầu nhập khẩu điện từ Lào. Việt Nam đã ký một thỏa thuận để mua 5.000 MW điện từ Lào đến năm 2030 nhưng lượng điện nhập khẩu hiện tại chỉ ở mức 1.000 MW. Mặc dù nhu cầu điện năng được dự báo gấp ba lần hiện tại, các dự báo trong Quy hoạch phát triển điện VII vẫn đưa ra con số nhập khẩu điện tương đối thấp.
Khác với nhiều suy nghĩ truyền thống, nhóm tác giả cho rằng Việt Nam có thể gây ảnh hưởng tới các quyết định xây dựng đập thủy điện ở thượng nguồn thông qua việc tăng cường nhập khẩu điện từ Lào. Việt Nam sẽ cần phải lựa chọn giữa việc nhập khẩu than hay nhập khẩu điện để đáp ứng nhu cầu điện đang ngày càng gia tăng từ quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Nếu Việt Nam tăng gấp đôi lượng điện nhập khẩu từ Lào lên 10.000 MW, Việt Nam có quyền đưa ra các yêu cầu là điện họ mua cần được sản xuất từ nguồn nào. Ví dụ, Việt Nam có thể ký một thỏa thuận mua bán điện có điều kiện để chỉ mua điện từ những đập có tác động môi trường thấp nhất tới Đồng bằng sông Cửu Long hoặc từ các nhà máy điện mặt trời và điện gió. Đây là một giải pháp kinh tế để Lào tăng cường đầu tư vào năng lượng tái tạo.
Campuchia có thể đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi sang an ninh năng lượng thông qua các dự án điện mặt trời quy mô lớn dựa trên tiềm lực lớn về ánh nắng mặt trời và thực tế là, điện mặt trời có thể đáp ứng đỉnh cầu điện trong mùa khô khi mà các nguồn sản xuất thủy điện suy giảm đáng kể. Chi phí đầu tư điện mặt trời để đáp ứng nhu cầu điện của Campuchia khá thấp; ví dụ như chi phí xây dựng tính theo đơn vị MW của một nhà máy điện mặt trời có tổng công suất 10 MW tại Bavet, tỉnh Svay Rieng chỉ bằng nửa chi phí xây dựng đập Hạ Sesan 2.
Ở cấp khu vực, càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp tư nhân quan tâm đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn. Ở phía Nam Lào, nhà đầu tư Thái Lan đang xây dựng một nhà máy điện gió có tổng công suất 600 MW và các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã ký các thỏa thuận MOU để mua hàng trăm megawatt điện mặt trời. Tại Campuchia, đầu tư của khu vực tư nhân được kỳ vọng sẽ tăng đáng kể khi Chính phủ ra quy định cho phép các nhà sản xuất điện độc lập tham gia thị trường, dự kiến vào cuối tháng 1 năm 2018. Đầu tư tư nhân vào năng lượng tái tạo ở Việt Nam hiện tại còn hạn chế bởi giá điện thấp và được trợ giá cũng như việc thực hiện chính sách điều tiết yếu kém. Mặc dù mức giá công bằng hơn đã được phép áp dụng cho các nhà sản xuất điện độc lập, EVN – tập đoàn điện lực của Nhà nước vẫn có quyền tự quyết định là dự án nào sẽ được thông qua. Tuy nhiên, trong bối cảnh nợ công và nhu cầu điện tăng, việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo có thể sẽ tăng dần khi các nhà máy điện gió và điện mặt trời được xây dựng ở Campuchia và Lào – nơi có chi phí đất rẻ tương đối và sẽ xuất khẩu điện sang Việt Nam. Ví dụ, một dự án chuyển đổi 10.000 hecta đất cho mục tiêu kinh tế tại Campuchia có thể sản xuất khoảng 3.000 MW điện. Và việc này sẽ mở ra cánh cửa để xây dựng các dự án điện mặt trời để xuất khẩu sang khu vực phía Nam Việt Nam.
Mặc dù nguồn lực tài chính và công nghệ hiện đã có, nhưng môi trường thể chế chính sách thì sẽ rất chậm thay đổi. Ví dụ, tuy có lợi ích kinh tế rất nhỏ, rất nhiều chính phủ vẫn cho rằng việc độc lập về năng lượng vẫn phải ưu tiên hơn việc mua bán điện. Và một số nhóm lợi ích cũng thu được những lợi nhuận nhất định khi tiếp cận phát triển thủy điện theo dự án đơn lẻ. Nhưng những lợi ích kinh tế của phương án có ít đập thủy điện hơn và nhiều điện mặt trời và điện gió hơn là rất rõ ràng và nếu các quốc gia có thể tận dụng được những cơ hội mới này, họ có thể đạt được an ninh năng lượng trong khi sự đánh đổi về xã hội và môi trường thấp hơn nhiều.
Jake Brunner, Brian Eyler, Courtney Weatherby, Eloise Kendy, and Nikky Avila
Về các tác giả: đến từ các tổ chức tham gia Sáng kiến Kết nối Mê Công bao gồm: ông Jake Brunner từ tổ chức IUCN, ông Brian Eyler và bà Courtney Weatherby từ Trung tâm Stimson, TS. Eloise Kendy từ tổ chức The Nature Conservancy và bà Nikky Avila từ nhóm Năng lượng và Tài nguyên Đại học California-Berkeley.
