Con đường dẫn đến sự tuyệt chủng từ những con đập

Cá mái chèo sông Dương Tử, Trung Quốc cùng với cá da trơn khổng lồ trên sông Mê Kông đều được IUCN liệt kê vào loài có nguy cơ tuyệt chủng nghiêm trọng. Tuy nhiên không may mắn thay vào cuối tháng trước các nhà khoa học đã công bố về việc biến mất hoàn toàn của loài cá mái chèo này.

Sự tuyệt chủng của cá mái chèo, một trong những loài nước ngọt lớn nhất thế giới, có lẽ sẽ đóng vai trò như một lời cảnh tỉnh cho những nhà đầu tư đã và đang tạo nên những con đập trên sông Mê Kông, cũng như gióng một hồi chuông báo động đến các nhà hoạch định chính sách khu vực về mức độ nghiêm trọng của các dự án thủy điện hiện có và có thể có.

Những số liệu ghi nhận cuối cùng từ các nhà khoa học cho thấy rằng loài cá mái chèo Trung Quốc này có thể dài tới 7 mét, và nặng gần 450kg. Chúng có thân hình dài, màu xám bạc, miệng rất lớn và mõm dài và rộng giống như mái chèo.

Loài cá này sinh sống trên sông Dương Tử cho đến cuối năm 1970, do việc khai thác quá mức đã dẫn đến sự suy giảm về số lượng loài tại khu vực này. Vào những năm 1980, việc xây dựng một con đập trên sông Dương Tử như một phần của dự án thủy điện Gezhouba đã làm cho mọi thứ trở nên tồi tệ hơn khi nó tạo ra một rào cản khiến cho loài cá di cư không thể di chuyển đến khu vực thượng nguồn để sinh sản.

Kể từ đó, việc xây dựng đập Tam Hiệp khổng lồ trên sông Dương Tử, cùng với việc đánh bắt quá mức, giao thông đường thủy và ô nhiễm đã ảnh hưởng đến loài này.

Giống như cá mái chèo Trung Quốc, khoảng 160 loài trong lưu vực hạ lưu sông Mê Kông , những loài dựa vào di cư đường dài để sinh sản, đang phải đối mặt với các mối đe dọa của việc đánh bắt và phát triển quá mức. Chẳng hạn, loài cá da trơn khổng lồ, có thể dài tới 3 mét và nặng 300 kg, đã biến mất khỏi tự nhiên kể từ năm 2015. Đó là một bước tiến tới sự tuyệt chủng và sự phát triển của thủy điện ở sông Mê Kông đang thúc đẩy quá trình này.

Ngoài tám đập trên thượng nguồn sông Mê Kông ở Trung Quốc, đập Xayaburi và Don Sahong ở Lào – hai trong số 11 dự án được lên kế hoạch cho phần dưới của dòng sông – đã bắt đầu hoạt động vào năm ngoái.

Kể từ năm 2016, chính phủ Lào đã tiến hành kế hoạch xây dựng thêm hai dự án Pak Beng và Pak Lay, và chỉ tháng trước, nó đã công bố một dự án thứ năm – đập Luang Prabang.

Trong số các tác động môi trường có khả năng bất lợi liên quan đến các dự án này, như được chỉ ra bởi các nghiên cứu dựa trên khoa học, là sự sụt giảm đáng kể trong quần thể cá, vì những con đập này sẽ chặn lối đi của chúng. Mặc dù các nhà xây dựng đã cho xây dựng các lối đi cho cá trong các con đập, tuy nhiên biện pháp này lại chưa được kiểm chứng. Không ai biết liệu những đường hầm này có phát huy đúng mục đích của nó hay không. Một nghiên cứu của Ủy ban sông Mê Kông công bố năm ngoái chỉ ra rằng thang cá được thiết kế cho đập Xayaburi là không hiệu quả.

Tuy nhiên, Chansaveng Buongnong, Trưởng phòng Chính sách và Quy hoạch Năng lượng của Lào, gần đây đã đảm bảo với giới truyền thông rằng dự án đập mới nhất Luang Prabang sẽ không ảnh hưởng đến hệ sinh thái của dòng sông, họ đã cho xây dựng các lối đi đặc biệt sẽ tạo điều kiện cho việc di cư của cá.

Tuy nhiên, “các biện pháp giảm thiểu” chưa được kiểm chứng. Lựa chọn đáng tin cậy duy nhất là cho ngừng các dự án thủy điện đang sắp sửa xây dựng lại.

Chính phủ nên xem xét lại kế hoạch xây dựng đập cũng như thúc đẩy công ty Điện lực Thái Lan (Egat) sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo trong bối cảnh Egat  đang là nhà thu mua chính của dự án này,.

Chính quyền và các nhà đầu tư không nên bỏ qua những tác động mà các con đập này gây ra đối với cá da trơn khổng lồ sông Mê Kông và các loài cá khác khi mà chúng là nguồn cung cấp protein lớn cho các cư dân ven sông.

Theo Bangkok Post

Dịch bởi VRN

Liên quan đến bài viết

Bình luận

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *